Bộ Chính trị vừa ban hành Quy định số 205-QĐ/TW “Về việc Kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền”.

Trong khi Quy định trên được cán bộ, đảng viên và nhân dân ghi nhận, đánh giá cao thì các thế lực thù địch lại cho rằng “không thể kiểm soát được quyền lực với cơ chế độc đảng, toàn trị” và “Việt Nam không thể có dân chủ nếu Đảng Cộng sản Việt Nam không từ bỏ độc quyền lãnh đạo”.

Những lý luận xuyên tạc nêu trên thực ra không có gì mới. Để góp phần bác bỏ luận điệu hậm hực nêu trên của các “nhà dân chủ”, chúng tôi xét thấy trước hết phải có sự thống nhất trong quan niệm về dân chủ. Dân chủ (tiếng Anh là Democracy) có gốc từ tiếng Hy Lạp; nghĩa gốc của từ cũng là nghĩa cơ bản của khái niệm là: “chính quyền của dân, thực hiện quyền lực của dân”. Dân chủ là một hình thức (cách thức, kiểu) tổ chức nhà nước mà trong đó “quyền lực phải thuộc về số đông, phục vụ cho nhu cầu của số đông và vì quyền lợi của số đông”. Dân chủ mang tính giai cấp, điều đó khiến cho khái niệm dân chủ từ khi ra đời cho đến nay đã được sử dụng rất khác nhau trong các thời đại, các chế độ chính trị, thậm chí đã có những cách hiểu, cách giải thích và thực hành dân chủ trái ngược nhau trong lịch sử. Nhưng định nghĩa phổ quát nhất về dân chủ, xem “dân chủ là quyền lực thuộc về số đông, thuộc về dân, có nguồn gốc từ dân” là nội dung khó có thể hiểu khác đi được.

Từ Cách mạng Tháng Tám - 1945, nhất là từ Đại hội VI (1986) đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhận thức nhất quán về dân chủ và tập trung xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN với đầy đủ tính chất “Nhà nước của dân, do dân, vì dân”. Nhìn lại hơn 30 năm đổi mới, Đảng ta cho rằng: “Nền dân chủ XHCN ở Việt Nam phải vừa thể hiện các giá trị dân chủ phổ quát của nhân loại, vừa thể hiện những giá trị đặc trưng phản ánh bản sắc, đặc điểm văn hóa, truyền thống của Việt Nam; có nội dung cốt lõi là tôn trọng, bảo đảm quyền con người, quyền công dân, quyền làm chủ của nhân dân, gắn với trách nhiệm và nghĩa vụ công dân nhằm tạo ra ngày càng đầy đủ những điều kiện cho sự giải phóng mọi năng lực sáng tạo của con người, gắn liền với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, trong đó nhân dân là chủ thể của các thiết chế chính trị và Nhà nước theo đúng nguyên lý chủ quyền nhân dân được quy định trong Hiến pháp 2013”

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu to lớn, thực tiễn xây dựng nền dân chủ ở nước ta cũng bộc lộ nhiều yếu kém, bất cập. Trước hết là dân chủ trong Đảng chưa được thực hiện đầy đủ; nguyên tắc tập trung dân chủ thực hiện chưa nghiêm dẫn đến tình trạng “thành tích là của cá nhân, khuyết điểm là do tập thể”. Việc Đảng ban hành hai Nghị quyết T.Ư 4 (Khóa XI và Khóa XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã khẳng định vấn đề này. Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền còn những bất cập, chưa đáp ứng đầy đủ các nguyên tắc cơ bản: Thượng tôn pháp luật; hoạt động thực sự dân chủ; chăm lo, bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân, quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân... đã hạn chế việc thực hiện đầy đủ các quyền và điều kiện làm chủ của nhân dân. Nguyên tắc “Đảng lãnh đạo - Nhà nước quản lý - Nhân dân làm chủ” chưa được thể chế hóa đầy đủ, cụ thể và rành mạch thành cơ chế đồng bộ để nhân dân thực sự là chủ và làm chủ các quá trình phát triển kinh tế, chính trị, xã hội, làm chủ theo tinh thần “Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân”. Cơ chế kiểm soát quyền lực của Đảng, Nhà nước chưa đầy đủ, chưa đồng bộ; nỗ lực ban hành các văn bản lãnh đạo, quản lý nhằm kiểm soát quyền lực của Đảng, Nhà nước chậm đi vào thực tế cuộc sống; tình trạng lạm quyền, tham quyền, tha hóa quyền lực đã gây bức xúc trong xã hội...

Để khắc phục những hạn chế, bất cập nêu trên, kiến tạo một nền dân chủ mà nhà nước thực là của dân, do dân và vì dân trong điều kiện một đảng cầm quyền, Đảng ta đã xây dựng rất nhiều nghị quyết về xây dựng nền dân chủ XHCN của nước ta và khẳng định những giải pháp căn bản sau đây:

Một là, xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam thực sự trong sạch, vững mạnh, là đạo đức, là văn minh, thật sự vì lợi ích của nhân dân, của dân tộc. Đảng với tư cách là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội; quyết định đường lối chính trị cho sự phát triển đất nước; quyết định những vấn đề liên quan đến vận mệnh quốc gia. Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là bộ phận của hệ thống ấy. Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về sự lãnh đạo của mình, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.

Hai là, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Nhà nước không có quyền lực tự thân, nhà nước thực hiện quyền lực do nhân dân ủy thác thông qua Hiến pháp và pháp luật; thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng thành luật pháp để quản lý xã hội, phát triển đất nước.

Ba là, phát huy đầy đủ vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội đại diện cho ý chí và lợi ích của các tầng lớp nhân dân, tham gia ý kiến vào các quyết định của Đảng, Nhà nước; đồng thời thực hiện vai trò kiểm tra, giám sát, phản biện đối với hoạt động của Đảng, Nhà nước trong việc thực hiện quyền lực nhân dân.

Điều 3, Hiến pháp 2013 khẳng định: “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”.

Có thể nói, dân chủ vừa là mục tiêu, động lực; vừa là bản chất của chế độ ta.

Nguyễn Hồng