Năm ấy, sau khi hoàn thành lớp huấn luyện cấp tốc cho 40 thanh niên Việt Nam ở biên giới Cao Bằng - Trung Quốc, đồng chí Lê Quảng Ba và Hoàng Sâm về nước trước bàn kế hoạch với các đồng chí trong nước đón Bác về. Sáng sớm ngày mồng 2 Tết Tân Tỵ (tức thứ 3, ngày 28-1-1941) Bác cùng các đồng chí Phùng Chí Kiên, Lâm Bá Kiệt (Phạm Văn Đồng), Dương Hoài Nam (Võ Nguyên Giáp) và nhiều đồng chí khác xuất phát từ làng Nậm Quang huyện Tĩnh Tây, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc băng qua đường rừng về nước. Chiều cùng ngày, Bác về đến biên giới Tổ quốc. Đồng chí Lê Quảng Ba ra đón, đi trước dẫn đường, đồng chí Phùng Chí Kiên và các đồng chí khác đi sau bảo vệ Bác. Đoàn đi đến đỉnh núi Phia Sum Khảo, không ai bảo ai, mọi người đều dừng lại xúc động nhìn Bác, khi Người lặng đi bên cột mốc 108 trên biên giới Việt - Trung thuộc địa phận xã Thượng Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng, mắt hướng về Tổ quốc sau 30 năm xa cách… Bước qua cột mốc biên giới, Bác bồi hồi rưng rưng cúi xuống vốc nắm đất Tổ quốc lên hôn (Bác đã về đây Tổ quốc ơi!/ Nhớ thương, hồn đất ấm hơi Người/ Ba mươi năm ấy chân không mỏi/ Mà đến bây giờ mới tới nơi/ (Tố Hữu - Theo chân Bác)”.

Rời cột mốc, đoàn cán bộ dẫn đường và bảo vệ Bác đi theo con đường mòn hẹp, cây dây leo chằng chịt có chỗ phải vén lên mới đi được đến thung lũng hang Pắc Bó rồi men theo suối vào gia đình ông Máy Lì, người dân tộc Nùng, một cơ sở tin tưởng của cách mạng lúc bấy giờ. Hôm ấy Bác mặc bộ quần áo chàm, đi dép rơm, tay chống gậy nên chủ nhà chưa biết Bác là ai, chỉ gọi là ông Ké, mặc dù năm ấy Bác mới có 51 tuổi. Khi được đồng chí Lê Quảng Ba giới thiệu ông Ké cũng là cán bộ quan trọng từ dưới xuôi lên thì ông chủ vui mừng lắm, tự tay lấy nước nóng mời ông Ké rửa trước. Sau ít phút nghỉ ngơi, chủ nhà mang ra một mâm cỗ Tết theo phong tục của người Nùng dành để đãi khách sang gồm có: thịt nai khô nướng bằng than củi, xôi ba màu, rượu nếp, thịt lợn… và nói: “Biết thế nào ông Ké và các chú cũng qua nên già cố chờ để cùng nhau ăn cái Tết Tân Tỵ cho vui vẻ. Chúng ta đều là con cháu Lạc Hồng, cùng một chí hướng cả mà!”.

Nói rồi chủ nhà rót rượu ra bát, tay trái đặt ngang qua ngực, còn tay phải cầm bát rượu nâng lên chúc tụng. Chạm bát xong mọi người trò chuyện vui vẻ. Sau 30 năm dài đằng đẵng xa Tổ quốc, lần đầu tiên được đón Tết trên đất mẹ, được sống lại không khí của Tết cổ truyền Bác không khỏi chạnh lòng, xúc động nhớ đến những ngày xa xứ mỗi khi Tết đến xuân về, nhưng Bác vẫn ghìm nén tình cảm của mình, hòa chung vào không khí Tết ở nhà ông Máy Lì. Người chỉ vào từng món ăn trên mâm cỗ bảo chủ nhà nói bằng tiếng Tày rồi Bác nhắc lại. Mọi người sửng sốt khi thấy Bác nói khá chính xác làm cho bữa cơm đón Tết Tân Tỵ trở nên ấm cúng và vui vẻ hơn. Nhưng mỗi khi nhìn dáng vóc gầy gầy, nước da xanh mái mái của Bác thì ai cũng ngậm ngùi nghĩ đến những năm bôn ba trên đất khách quê người của Bác. Bù lại vóc dáng ấy là đôi mắt sáng ngời và vầng trán mênh mông của Bác làm mọi người tin tưởng vào tương lai của cách mạng.

Bữa cơm kéo dài vài tiếng đồng hồ, ông Máy Lì hết rót rượu, lại gắp thịt mời Bác và mọi người, rồi gọi cả vợ con ra tiếp khách để tỏ lòng trân trọng và mến khách của đồng bào miền núi. Bác động viên anh em ăn thực lòng để đáp lại tấm lòng của gia chủ.

Tối ấy Bác và các đồng chí đi cùng ngủ lại nhà ông Máy Lì. Bác nằm cách chủ nhà một tấm liếp bằng nứa, rì rầm nói chuyện đến khuya. Đêm đầu tiên cũng là đêm đón Tết cổ truyền đầu tiên và ngủ trên đất mẹ sau 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước làm Bác bồi hồi thao thức khôn nguôi.

Sáng hôm sau Bác nói với đồng chí Lê Quảng Ba: Đồng bào ta còn nghèo, nhà chật chội, ở đây mãi không tiện nên xin phép chủ nhà vào rừng để lo công việc cho thuận tiện. Ông Máy Lì cố nằn nì để Bác và đoàn cán bộ ở lại thêm, nhưng khi nghe Bác giải thích ông đành vui vẻ dẫn Bác và đoàn cán bộ theo con đường mòn lên hang Cốc Bó nằm sát biên giới Việt - Trung, do các đồng chí Lê Quảng Ba, Hoàng Sâm, Vũ Anh đã chuẩn bị sẵn. Đến cửa hang Cốc Bó, Bác hỏi: “Cốc Bó nghĩa là gì?”. Đồng chí Lê Quảng Ba thưa: “Cốc Bó tiếng Tày nghĩa là đầu nguồn ạ”. Nhìn ngắm toàn cảnh núi non trung trùng điệp điệp, hùng vĩ nên thơ của Cao Bằng - mảnh đất địa đầu Tổ quốc, nét mặt Bác rạng rỡ niềm vui. Sau này Bác đặt tên cho con suối trước hang nước trong xanh chảy xuôi dòng về làng Pắc Bó là suối Lênin, còn ngọn núi cao nhất là núi Các Mác. Hằng ngày Bác ngồi làm việc trên một tảng đá bằng phẳng, bên suối là vòm cây xanh có nhiều hoa rừng và chim hót, cảm xúc làm nhiều thi phẩm nổi tiếng để lại cho đời.

Từ địa điểm lịch sử này, từ chiếc bàn đá chông chênh ấy và cũng từ cái năm đầu tiên trở về Tổ quốc 1941 ấy, vật chất tuy đạm bạc nhưng đưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ kính yêu, cao trào cách mạng khắp ba miền Bắc, Trung, Nam đều đồng loạt phát triển. Tháng 4-1945, Bác Hồ quyết định rời Pắc Bó về căn cứ Tân Trào, Tuyên Quang lãnh đạo nhân dân đứng lên làm cuộc Cách mạng Tháng Tám long trời lở đất, lật đổ ách thống trị của thực dân Pháp và phát xít Nhật, giành chính quyền, lập nên nhà nước dân chủ đầu tiên ở Đông Nam Á.

Từ đó đến nay đã 85 năm trôi qua, nhưng “Mùa xuân năm ấy Bác về” vẫn in đậm trong tâm trí của người dân Việt Nam. Nhớ về mùa xuân năm ấy, chúng ta nguyện suốt đời làm theo tấm gương đạo đức của Người.

Nguyễn Đức Hòe