*Cần có sắc thuế riêng bảo vệ môi trường *
Theo dự án Luật thuế bảo vệ môi trường do Bộ trưởng Bộ Tài chính Vũ Văn Ninh trình bày, hiện Việt Nam chưa có một sắc thuế riêng về bảo vệ môi trường để thu vào hàng hóa khi sử dụng gây ô nhiễm môi trường nhằm hạn chế sản xuất và tiêu dùng loại hàng hóa này. Hiện trạng ấy thách thức nghiêm trọng đối với sự phát triển kinh tế bền vững của Việt Nam. Trong khi đó, các quy định hiện tại về nghĩa vụ tài chính đối với hành vi gây ô nhiễm môi trường cũng chưa được xác định đầy đủ, bao quát, tính hiệu lực chưa cao, dẫn đến ý thức trách nhiệm bảo vệ môi trường của nhiều tổ chức, cá nhân còn rất thấp; Mức thu từ phí bảo vệ môi trường còn hạn chế, không đủ sức ngăn chặn hành vi gây ô nhiễm, dẫn đến nhiều hành vi gây tác động nghiêm trọng đến môi trường không được xử lý nghiêm minh; Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế cũng đặt ra yêu cầu phát triển kinh tế phải gắn liền với bảo vệ môi trường.
Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Tài chính-Ngân sách của Quốc hội đề cập, việc ban hành Luật thuế bảo vệ môi trường là cần thiết, nhằm tạo khuôn khổ pháp lý đồng bộ, ổn định điều chỉnh toàn diện các hành vi tác động tiêu cực đến môi trường; khắc phục hạn chế trong chính sách thu hiện hành; tạo nguồn lực tài chính bù đắp chi phí bảo vệ môi trường; bảo đảm hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển bền vững; đồng thời đáp ứng việc thực hiện cam kết quốc tế, phù hợp với xu thế phát triển của thế giới.
Dự thảo Luật Thuế bảo vệ môi trường gồm 4 chương, 14 điều quy định về đối tượng chịu thuế, đối tượng không chịu thuế, người nộp thuế, căn cứ tính thuế, khai thuế, tính thuế, nộp thuế và hoàn thuế bảo vệ môi trường. Đối tượng chịu thuế được quy định trong luật gồm xăng dầu, than, túi nhựa xốp, dung dịch HCFC (được sử dụng trong một số lĩnh vực công nghiệp như làm lạnh, điều hòa không khí…), nhóm thuốc bảo vệ thực vật hạn chế sử dụng và thuốc sử dụng trong nông nghiệp.
Xác định lại địa vị pháp lý của cơ quan thanh tra*
*Tổng thanh tra Chính phủ Trần Văn Truyền trình bày tờ trình dự án Luật Thanh tra (sửa đổi), nhấn mạnh, một trong những bất cập, hạn chế của Luật Thanh tra ban hành năm 2004 là chưa thể hiện rõ cơ quan thanh tra vừa thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về công tác thanh tra, vừa là công cụ hữu hiệu tiến hành thanh tra phục vụ công tác quản lý, điều hành của Thủ trưởng cơ quan quản lý. Trong hoạt động, các cơ quan thanh tra chưa phát huy được tính chủ động và tính tự chịu trách nhiệm khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao…
Luật Thanh tra (sửa đổi) được trình tại Kỳ họp này nhằm khắc phục những hạn chế của quy định hiện hành về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra; địa vị pháp lý của Thanh tra Chính phủ, sự không thống nhất trong tổ chức và hoạt động của Thanh tra chuyên ngành. Đồng thời, thể chế hoá đường lối, chủ trương đổi mới tổ chức, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của cơ quan Thanh tra.
Luật Thanh tra (sửa đổi) trình Quốc hội kỳ này gồm 5 chương, 65 điều quy định về vị trí, vai trò của cơ quan thanh tra; nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan thanh tra, của người đứng đầu cơ quan thanh tra; tổ chức các cơ quan thanh tra; phương thức hoạt động thanh tra; các biện pháp bảo đảm thi hành yêu cầu, kiến nghị, kết luận, quyết định xử lý về thanh tra…
***Phải thể hiện rõ các quyền của chủ sở hữu, nhất là quyền định đoạt ***
Quốc hội đã nghe Bộ trưởng Bộ Tài nguyên - Môi trường Phạm Khôi Nguyên trình bày dự án Luật Khoáng sản (sửa đổi). Điểm mới trong Dự thảo Luật được thể hiện ở các quy định về nội dung thăm dò khoáng sản; khai thác khoáng sản; quản lý Nhà nước về khoáng sản. Quy định về việc quản lý, bảo vệ, điều tra cơ bản địa chất về tài nguyên khoáng sản và hoạt động khoáng sản trong phạm vi đất liền, hải đảo, nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của nước CHXHCN Việt Nam; riêng tài nguyên khoáng sản là dầu khí và các loại nước thiên nhiên không phải là nước khoáng, nước nóng thiên nhiên được điều chỉnh bằng các văn bản pháp luật khác.
Dự thảo Luật Khoáng sản (sửa đổi) có 53 điều được bổ sung mới toàn bộ về nội dung và 34 điều được sửa đổi, bổ sung. Về các chủ trương, chính sách lớn cần được thể chế hóa trong Dự thảo Luật Khoáng sản (sửa đổi), Dự thảo Luật Khoáng sản được Bộ trưởng Bộ Tài Nguyên và môi trường trình bày, nêu rõ: Nhà nước là đại diện chủ sở hữu toàn dân về tài nguyên khoáng sản. Do đó, các quy định của Luật phải thể hiện rõ các quyền của chủ sở hữu, nhất là quyền định đoạt; đồng thời bảo đảm quyền sở hữu đối với vốn, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của tổ chức, cá nhân hoạt động khoáng sản.
Dẫu còn có một số ý kiến khác nhau về các quy định của Dự thảo Luật khoáng sản (sửa đổi), song theo đánh giá của Ủy ban kinh tế, Dự thảo Luật đã có có nhiều quy định mới, cụ thể, rõ ràng hơn, khắc phục những vấn đề vướng mắc, khó khăn trong thực tiễn, bổ sung những quy định mà Luật hiện hành còn chưa đề cập tới.
Đa số các ý kiến đều đồng tình với các quy định về Chiến lược tài nguyên khoáng sản (Điều 30); Quy hoạch khoáng sản (Chương VI) và thẩm quyền lập quy hoạch (Điều 33, 34, 81); giấy phép thăm dò, khai thác khoáng sản; thẩm quyền cấp phép; đấu giá quyền thăm dò, khai thác khoáng sản; chuyển nhượng quyền khai thác khoáng sản.
Ủy ban kinh tế đề nghị Quy hoạch khoáng sản bao gồm Quy hoạch điều tra cơ bản địa chất về tài nguyên khoáng sản; Quy hoạch thăm dò, khai thác khoáng sản chung của cả nước và Quy hoạch khai thác, chế biến và sử dụng khoáng sản của ngành./.
***Chưa tán thành về đối tượng chịu thuế môi trường ***
Chiều 31-5, thảo luận tại tổ về dự án Luật bảo vệ môi trường, Về căn cứ tính thuế của các đối tượng này, tờ trình của Chính phủ đề nghị, do thuế bảo vệ môi trường là sắc thuế lần đầu tiên được xây dựng, để tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều hành và thực thi chính sách thuế mới được thuận lợi, Dự thảo luật quy định Biểu khung thuế bảo vệ môi trường với mức thuế tuyệt đối tối thiểu và mức thuế tuyệt đối tối đa. Phần lớn các đại biểu Quốc hội chưa tán thành với quy định về đối tượng chịu thuế bảo vệ môi trường. Các đại biểu nhất trí với sự cần thiết ra đời luật này nhưng cho rằng, dự thảo còn sơ sài, dễ dãi và chưa chặt chẽ khi mới chỉ xếp 5 nhóm là xăng, dầu; than; dung dịch HCFC; túi nhựa xốp và thuốc bảo vệ thực vật thuộc nhóm hạn chế sử dụng vào đối tượng chịu thuế.
Theo các đại biểu Nguyễn Thị Nguyệt Hường (Hà Nội), Trần Đình Long (Đắk Lắk), Trần Bá Thiều (Hải Phòng), Vũ Thị Thu Hà (Hưng Yên)... hiện nay không chỉ có 5 nhóm hàng hóa như quy định của dự thảo luật là có tác động xấu đến môi trường mà còn nhiều mặt hàng khác, đặc biệt là các loại hóa chất độc hại, các sản phẩm độc hại… tác động trực tiếp đến môi trường và sức khỏe con người đã được quy định trong nhiều văn bản.
Để bảo đảm tính bao quát, công bằng của luật, các đại biểu cho rằng cần rà soát lại danh mục hàng hóa, nghiên cứu danh mục sản phẩm gây ô nhiễm môi trường trong các văn bản liên quan, các công ước quốc tế về bảo vệ môi trường, khảo sát thêm thực tiễn để bổ sung đối tượng chịu thuế dựa trên nguyên tắc đã là sản phẩm gây tác động tiêu cực đến môi trường thì phải thuộc diện chịu thuế. Để bảo đảm tính thuyết phục của dự án luật, đề nghị Chính phủ lý giải cụ thể về căn cứ quy định đối tượng chịu thuế, đối tượng gây ô nhiễm môi trường nhưng chưa thuộc diện chịu thuế.
Các đại biểu đồng tình, luật ra đời sẽ khiến các doanh nghiệp có ý thức hơn trong việc xả thải ra môi trường, nhưng phạm vi 5 nhóm đối tượng như dự thảo quy định chưa mang tính thuyết phục cao, chưa giải quyết hết được những điều người dân mong muốn; đề nghị mở rộng đối tượng chịu thuế đối với tất cả các đối tượng gây ảnh hưởng đến môi trường. Theo các đại biểu, còn rất nhiều nhóm cần được bổ sung vào đối tượng chịu thuế như chất tẩy rửa, hạt nix, rác; nhiều lĩnh vực, ngành sản xuất như giấy, pin, ắcquy, phân đạm, nhiệt điện... gây ô nhiễm rất nặng cho môi trường.
Giải thích thêm, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Phạm Khôi Nguyên nêu rõ để xử lý vấn đề ô nhiễm môi trường đang rất nặng nề, Chính phủ và Quốc hội đã đưa ra nhiều biện pháp như tăng xử phạt, sửa đổi luật, tăng cường tuyên truyền, kiểm tra giám sát với mục đích làm cho môi trường trong lành hơn. Cái được không phải là tiền mà là lấy lại được sự trong lành của môi trường với nguyên tắc ai gây ra ô nhiễm thì phải bỏ tiền ra để khắc phục, bù đắp. Thuế này được xây dựng đặc thù nên không ngại sẽ phát sinh “thuế đúp,” thuế chồng thuế.
Đa số đại biểu không nhất trí với quy định tại khoản 3 Điều 4: Hàng hóa gây ô nhiễm môi trường thuộc đối tượng chịu thuế nếu không sử dụng trong nước mà xuất khẩu thì không phải chịu thuế.Các đại biểu cho rằng, quy định này chưa hợp lý vì Luật thuế bảo vệ môi trường không chỉ cần xác định trách nhiệm bảo vệ môi trường ở Việt Nam mà phải bảo vệ môi trường chung trên trái đất, nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa. Vì vậy, đề nghị quy định nghĩa vụ nộp thuế bảo vệ môi trường đối với cả hàng hóa xuất khẩu gây ô nhiễm môi trường.
MINH PHƯƠNG