Quân ngụy bắc cầu phao vượt qua sông Ba trong cảnh hoảng loạn.

Đánh giá đúng tình hình, lên quyết tâm khoa học

Sau thất bại Buôn Ma Thuột, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu gọi thiếu tướng Phạm Văn Phú - Tư lệnh Quân đoàn 2 ngụy về Cam Ranh để tìm cách đối phó tình huống. Tại đây, sau khi nghe Phú báo cáo tình hình, xin bổ sung quân số và phương tiện, Thiệu tuyên bố, không có bất cứ sự chi viện nào. Thiệu lệnh cho Quân đoàn 2 tìm cách rút quân về duyên hải miền Trung củng cố lực lượng chờ thời cơ đánh chiếm lại Tây Nguyên. Thiệu nói rõ ý đồ tổ chức cuộc rút chạy từ Tây Nguyên qua Phú Bổn về đồng bằng Tuy Hòa, và giao cho tướng Phú là người toàn quyền chịu trách nhiệm chỉ huy cuộc rút lui.

Ở Phú Yên, ta đã điều quân theo kế hoạch, xác định hướng trọng điểm là đường 5 (Tuy Hòa 1), sẵn sàng đánh địch từ Tây Nguyên xuống. Tư tưởng tác chiến của ta lúc này là: “Bí mật, khẩn trương, tranh thủ tạo thời cơ, tiến công kiên quyết, triệt để, nghi binh giỏi để căng kéo địch, tập trung đánh trận đầu bảo đảm chắc thắng, diệt địch ở nhiều nơi, ta ít tổn thất, thương vong…”.

Thực hiện phương án đã xác định, ngày 15-3-1975, Đại đội 202 tiến công tiêu diệt đại đội bảo an địch ở cứ điểm núi Tranh (Hòa Quang); Tiểu đoàn 96 tiêu diệt một đại đội của Tiểu đoàn 220 địch lên ứng cứu, tiếp tục diệt một bộ phận Tiểu đoàn 219 địch ở các xã Hòa Định, Hòa Thắng.

Đại tá Trần Văn Mười - nguyên Trưởng ban tác chiến Tỉnh đội kể lại: Ngày 17-3, tại núi Hương, Sở Chỉ huy tiền phương Tỉnh đội Phú Yên nhận điện từ Quân khu 5: “…Toàn bộ quân địch ở Tây Nguyên đang rút theo đường 7 (Tuy Hòa 2), lệnh cho Phú Yên phải điều động toàn bộ lực lượng tập trung đánh tiêu diệt quân địch trên đường 7, không cho chúng chạy thoát về thị xã Tuy Hòa; điều động Tiểu đoàn 96 bôn tập lên phía tây Củng Sơn, bắt liên lạc với Sư đoàn 320 đánh quân địch... Nhận được lệnh tổ chức thực hiện, không hỏi lại…”.

Nhận lệnh, Sở Chỉ huy tiền phương họp dưới sự chủ trì của Bí thư Tỉnh ủy Phú Yên - Nguyễn Duy Luân bàn tính làm thế nào để vừa chấp hành mệnh lệnh của Quân khu, vừa phải bảo đảm đập tan cuộc hành quân của địch. Tại cuộc họp này ta nhận định: địch từ Tây Nguyên theo đường 7 đến Củng Sơn, rồi vượt sông Ba theo đường 5 về Phú Lâm, vì đường 7 đã bị ta khống chế từ năm 1972. Mặt khác, đến ngày 17-3, ta phát hiện địch chở vật liệu, phương tiện làm cầu phao lên Thành Hội để bắc cầu vượt sông Ba. “Trong cuộc họp đó, tôi báo cáo tình hình địch có nhiều dấu hiệu tăng cường lực lượng bảo vệ đường 5 đoạn từ cầu Tổng lên Hòn Kén. Kiểm tra khu vực Thành Hội đoạn sông Nhau có địa thế thuận lợi để địch bắc cầu phao vượt sông Ba. Giải mã điện mật ta thu được trên sóng vô tuyến cho biết địch sẽ rút lui trên đường 5 về Phú Lâm…” - Đại tá Trần Văn Mười nhớ lại.

Từ những phân tích, phán đoán trên, Sở Chỉ huy tiền phương Phú Yên thống nhất phương án: “Tổ chức đánh giữ các chốt trên đường 5 để tạo thế đánh địch từ Tây Nguyên xuống”. Đại tá Lưu Công Thục - nguyên Đại đội trưởng Đại đội 1 Tiểu đoàn 13, người trực tiếp tham gia chiến đấu kể: “Tiểu đoàn 13 chúng tôi cùng với Tiểu đoàn 9, hai Đại đội Đặc công 25, 201, Đại đội 377 và Đại đội 203 của Tuy Hòa 1 tham gia đánh địch trên đường 5. Lực lượng ta như vậy là rất mỏng nếu xét tương quan lực lượng với quân địch, nhưng ta đã tính toán khéo léo, chính xác, xử trí linh hoạt các tình huống nên đã giành thắng lợi”.

Đập tan cuộc rút lui chiến lược của địch trên đường 5

Đúng như phương án ta đã chọn, sáng 18-3, địch điều động 2 khẩu pháo 105 từ cầu Cháy lên Hòn Kén, yểm trợ cho công binh bắc cầu phao từ Thành Hội sang Sơn Thành. Địch tập trung một lực lượng lớn nhân lực và phương tiện khu vực Hòn Kén chuẩn bị đón quân địch từ Thành Hội sang.

Đêm 18-3, Đại đội đặc công 201 tập kích vào cứ điểm Hòn Kén, Đại đội 205 tập kích vào cứ điểm Hòn Sặc, nhưng lực lượng địch bố trí dày đặc, kháng cự quyết liệt nên ý định tập kích không thành. Sở Chỉ huy tiền phương ta dùng cối và DKZ từ núi Hương bắn vào hai cứ điểm trên làm sát thương một bộ phận quân địch.

Ngày 19-3, địch điều động lực lượng đánh chiếm khu vực cầu Tổng, nhưng bị ta tiến công làm cho chúng gặp nhiều khó khăn. 19 giờ ngày 19-3, địch bắt đầu hành quân từ Hòn Kén xuống. Chúng cho 5 xe tăng đi đầu dẫn đường, lọt vào trận địa phục kích của Tiểu đoàn 9, bị ta tiêu diệt, địch quay đầu co cụm khu vực Hòn Kén, chờ lực lượng ứng cứu. Trước lúc trời sáng ngày hôm đó Tiểu đoàn 13 đánh chiếm cứ điểm cầu Cháy, tiêu diệt tiểu đoàn bảo an và chốt giữ trận địa cầu Cháy. Trên đường 5, từ sông Đồng Bò đến ga Gò Mầm khoảng 12km hoàn toàn bị lực lượng ta khống chế. Địch trên xuống không được, dưới lên cũng bị ta ngăn chặn tiêu diệt.

Từ ngày 20 đến 23-3, chuẩn tướng Trần Văn Cẩm - phụ tá hành quân cùng Vũ Quốc Gia - Tỉnh trưởng Phú Yên, liên tục cho pháo và máy bay bắn vào các mục tiêu của ta, rồi tổ chức tiến công từ hai hướng, từ đông lên và từ tây xuống nhưng đều bị quân ta vây ráp, tiêu hao nhiều sinh lực.

23 giờ ngày 23-3, Tiểu đoàn 96 bắt liên lạc phối hợp chiến đấu với Trung đoàn 64, Sư đoàn 320. Ngày 24-3, ta giải phóng Củng Sơn. 16 giờ ngày 24-3, đài kỹ thuật ta thu được lệnh của Phạm Văn Phú - Tư lệnh Quân đoàn 2 cho phá cầu phao, xe pháo ở Thành Hội để tháo chạy. Chớp thời cơ, ta tức tốc tiến công địch ở bắc sông Ba, vượt sông đánh chiếm khu Phú Đức. Lúc này, Phạm Văn Phú trực tiếp liên lạc với ta trên máy PRC25, đề nghị phía ta ngừng bắn để dân di tản về thị xã Tuy Hòa, nhưng ta buộc Phú đầu hàng.

Địch đã cố gắng hết sức nhưng không thể cứu vãn được tình hình. Ngày 24-3, chúng kéo nhau tháo chạy tán loạn như ong vỡ tổ, đè lên nhau cố chạy thoát thân. Sư đoàn 320 phối hợp với LLVT Phú Yên nhanh chóng tiêu diệt và bắt sống hơn 2 vạn quân địch, thu nhiều vũ khí, phương tiện chiến tranh; góp phần to lớn để quân và dân ta thần tốc giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Đại tá Nguyễn Bá Thuyết ghi theo lời kể của Đại tá Trần Văn Mười - nguyên Trưởng ban Tác chiến Tỉnh đội năm 1974-1975, nguyên Chỉ huy trưởng Bộ CHQS tỉnh Phú Yên và Đại tá Lưu Công Thục - nguyên Đại đội trưởng năm 1975.