Hồi ấy, nhà anh ở bên này sông Đuống, ngay trong khu tập thể nhà máy gỗ - diêm (nay thuộc phố Ngô Gia Tự, phường Đức Giang, quận Long Biên, T.P Hà Nội). Lần ấy, cách nay đã ba bốn mươi năm tôi dong xe đạp đạp theo dọc đường số một từ “phố nhà binh” - Lý Nam Đế đến thăm anh. Anh đang lững thững đi dạo dưới một giàn gấc quả rất sai và đang độ chín... Chúng tôi ngồi đối diện với nhau bên cái của sổ con nhìn ra những chân mạ xanh đến lạ lùng. Cảnh sắc ấy làm tôi liên tưởng tới những vần thơ sắt lửa của anh in trong hai tập Gió vào trận bão và Đêm Quảng Trị, anh viết trong thời kỳ chiến tranh chống Mỹ cứu nước ác liệt nhất. Mới vậy đấy mà đã “xa lắm rồi anh ơi”! Hôm ấy, dù anh đã bước vào tuổi 50, vậy nhưng tóc chưa ngả màu sương và cái cười thì vẫn trẻ trung, hào phóng... Vậy mà hôm nay, anh đã đi về nơi rất xa, xa lắm!
Phạm Ngọc Cảnh (còn có bút danh khác là Vũ Ngàn Chi) thuộc lớp nhà thơ xuất hiện ở những năm sắp vào cuộc Kháng chiến chống Mỹ, nhưng cuộc đời cầm súng của anh thì sớm hơn. Anh tạm biệt cái thị xã Hà Tĩnh nhỏ và nghèo quê anh vào bộ đội lúc còn ở tuổi 13 và khoác áo lính liên tục từ đó tới ngày về hưu với quân hàm Đại tá, tổng cộng hơn bốn mươi năm ròng rã, đi gần trọn cả ba cuộc chiến tranh giải phóng và bảo vệ Tổ quốc. Bây giờ bạn đọc biết anh là người làm thơ, nhưng đã có một thời người ta biết anh là một diễn viên kịch nói, một diễn viên khá quen thuộc với khán giả của Đoàn kich Quân đội những năm sáu mươi, ví như vai Trung úy Phương trong vở Nổi gió...
Hãy khoan nói về quãng đời hoạt động sân khấu của anh để nói về một Phạm Ngọc Cảnh - nhà thơ, dẫu biết rằng anh duyên, nợ với sân khấu, với văn xuôi không ít.
Phạm Ngọc Cảnh yêu thơ và làm thơ từ khi nào?. Điều đó chính anh cũng không còn nhớ nữa. Chỉ biết rằng những năm 1957-1958 ở khu Văn công Quân đội có một diễn viên trẻ rất ham đọc các sách báo văn nghệ. Anh theo dõi không sót một số tạp chí Văn nghệ và Văn nghệ quân đội nào. Tôi còn lưu giữ được tờ tạp chí Văn nghệ số 20 (tháng 1-1959). Trong đó cái tên Phạm Ngọc Cảnh xuất hiện lần đầu, không phải dưới bài thơ mà là dưới mấy dòng rất ngắn trong mục Bạn đọc với Văn nghệ. Anh viết rằng: “Nhìn cuộc sống như chuyến xe tốc hành mà chưa thấy cuộc sống đó trên báo chí, tôi rất sốt ruột”. Có phải vì sự “sốt ruột” đó mà anh đến với thơ?. Có phải vì anh yêu cuộc sống mà anh yêu thơ?. Và, dường như sau cái lần “sốt ruột” đó, người ta thấy anh bắt đầu bước vào cuộc đời thơ. Cái tên Phạm Ngọc Cảnh giàu nữ tính ấy đồng thời được ghi vào trong các bảng phân vai và ký dưới các bài thơ. Thơ Phạm Ngọc Cảnh xuất hiện đều đều vừa như một sự chỉn chu, kiên nhẫn lại vừa như có sự bứt phá, khác người. Cùng làm thơ một lớp với anh dạo ấy đã có không ít người bỏ cuộc. Anh thuộc số rất ít người giữ được tấm lòng trước sau và hết mình với thơ. Anh tâm sự: “Ba bể, bốn bên của thơ đều rộng, chăm đi mà chẳng dễ thấy bờ”. Đến năm này Phạm Ngọc Cảnh đã in cả chục tập thơ. Tiêu biểu là các tập: Gió vào trận bão (in chung với Ngô Văn Phú, Hoài Anh - 1967), Đêm Quảng Trị (bút danh Vũ Ngàn Chi - 1972). Ngọn lửa dòng sông (1976). Một tiếng Xa-ma-khi (in chung với Xuân Miễn, Duy Khán - 1981), Lối vào phía bắc (1982), Trăng sau rằm (1985), Đất hai vùng (1986), Nhặt lá (1995), Miền hương lặng (1992), Bến tìm sông (2001), Khúc rong chơi (2002), Thơ Phạm Ngọc Cảnh (tuyển, 2003, 2013)... Và cũng có lẽ không có một tờ báo nào được xuất bản từ những năm bảy mươi đến hết thế kỷ XX vắt sang những năm đầu của thế kỷ này mà thiếu vắng thơ anh, tên anh. Tôi có lần bảo với anh cái ý ấy. Anh cười và nói rằng: Các cụ dạy “quí hồ tinh bất quí hồ đa”, nhưng anh nói anh chủ trương “dĩ đa vi tinh”, nghĩa là phải làm thật nhiều để lọc lấy ít. Và anh nói thêm: Mình có trăm bài, tức là mình có rất nhiều sự lựa chọn, có thể mạnh tay bỏ đi tới 90 bài, nhưng chỉ có 10 bài thì sự lựa chọn ít lắm, chắc gì dám bỏ đi 9 bài?... Và quả đúng như thế, cả đời Phạm Ngọc Cảnh đã sống cùng thơ, trăn trở cùng thơ; và thơ đã không phụ anh. Anh có nhiều bài thơ câu, thơ sống được cùng năm tháng; trong số ấy có bài được những người yêu thơ chép vào sổ tay, đưa vào các tuyển thơ hay, in trong sách giáo khoa, đưa lên các diễn đàn văn chương luận bàn như các bài Sư đoàn, Trăng lên, Đêm Quảng Trị (bút danh Vũ Ngàn Chi), Lý ngựa ô - khúc sau cùng... và chùm Thơ ngoài thơ.
Trăng lên anh làm năm 1984 là bài thơ viết về Bác dung dị và thành kính, tha thiết và giàu nhạc điệu. Có thể xem đây là một trong số những bài thơ hay viết về Bác. Vầng trăng Lăng Bác đẹp như vầng trăng cổ tích và Bác của chúng ta lại rất gần gũi đời thường, hai hình ảnh Bác và trăng gần gụi và cùng toả sáng:
... Con thấy cõi vô biên
Không như lòng đã nghĩ
Khi gặp nét thần tiên
Trong khuôn vàng dung dị
Trong lăng Bác chợt nghỉ
Như sau mỗi việc làm
Trăng ơi trăng biết thế
Nên trăng bước nhẹ chăng!
Bài thơ đã gieo vào lòng người đọc một nỗi xúc động, một niềm thành kính thiết tha. Ngay khi bài thơ mới viết xong, nhạc sĩ Thuận Yến đã phổ nhạc và cho đến tận hôm nay bài hát Vầng trăng Ba Đình (nhạc Thuận Yến, thơ Phạm Ngọc Cảnh) vẫn là một trong những bài hát hay nhất viết về Bác Hồ được nhiều thế hệ người nghe ưa thích…
(còn nữa)
Ngô Vĩnh Bình