Tôi sinh năm 1931, nhập ngũ năm 1953 vào Trung đoàn 77 rồi chuyển sang Đại đội 4, Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 246, tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, vào Đảng năm 1957. Năm 1958, đang là Khẩu đội trưởng cối 82 ly, tôi bị ốm, sức khỏe giảm sút nên chuyển ngành về Công ty May mặc Hà Nội, được đi học lớp quản lý kinh tế. Sau đó chuyển về Ban công tác miền Tây, sang làm việc ở nước bạn Lào từ 1967 đến 1971.
Năm 1967, Bạn chuẩn bị Đại hội Đảng bộ huyện Mường Khoa, tỉnh Phông Sa Lỳ. Bọn phỉ Vàng Pao được Mỹ viện trợ tổ chức tiến công phá hoại đợt sinh hoạt chính trị này. Là cán bộ thương nghiệp, tôi được tăng cường cho huyện Mường Khoa. Nhưng về đến nơi thì địch đã đánh đến gần. Cả cơ quan huyện phải ngừng hoạt động đi phục vụ chiến đấu.
Đồng chí Nông Văn Thọ, dân tộc Tày, quê Thái Nguyên giúp Huyện ủy tổ chức Đại hội thông báo với chúng tôi:
- Mấy ngày nay, chiến sự rất ác liệt, địch chiếm đồi cao, dùng máy bay trinh sát rồi bắn phá cùng với cối 61 ly kiềm chế quân ta. Ta cũng bắn cối 60 ly nhưng không chính xác nên chưa đánh lui được chúng. Nghe thế, tôi hỏi:
- Sao ta không dùng cối 82 ly.
- Có cối 82 ly đấy nhưng không có máy ngắm.
Tôi đứng lên quả quyết: - Tôi bắn ứng dụng được, không cần máy ngắm.
Thế là đồng chí Thọ yêu cầu tôi đi chiến đấu.
Sáng hôm sau, đồng chí Thọ và tôi lên đường. Tôi mang duy nhất một mảnh vải dù ngụy trang và nói với anh Thọ: - Tôi là chuyên gia kinh tế, giúp bạn về thương nghiệp, nay “ôm” phần quân sự. Nhỡ có chuyện gì thì sao.
Anh Thọ nói: - Tôi sẽ chịu trách nhiệm hoàn toàn về quyết định này. Lúc này nhiệm vụ chiến đấu là số 1. Vì không đuổi được phỉ thì không Đại hội Đảng của huyện được.
Đến kho, tôi nói với du kích bạn chỉ lấy súng và 2 hòm đạn (6 quả). Khẩu cối 82 ly đầy mỡ bảo quản, không có giẻ, tôi dùng lá khô rồi cả khăn mùi xoa để lau. Sau đó có một khẩu đội cối 60 bộ đội Lào tới giúp tôi vác súng vào trận địa.
Đi được chừng 20m, thì tôi nhìn thấy cái nắp quả mìn díp của địch. Chưa kịp kêu lên thì một tiếng nổ phát ra, khói bay mờ cả mắt. Đồng chí bộ đội bạn ngã xuống cách tôi một người. Một đồng chí Trung úy đến thông báo ở đây có nhiều mìn của địch, không ai được đi lung tung, rồi quay sang tôi và nói: - Từ đây đến đỉnh núi kia, địch đang chiếm chỉ khoảng 2.000m. Tôi cho giá pháo rồi xin đồng chí tờ giấy xé trong cuốn sổ nhỏ, gấp chéo rồi gấp vuông, tôi được một góc 45 độ, gài 8 liều phụ bắn cự ly từ 1.800 đến 2.000m. Nhưng quả đạn đầu tiên tôi cho gài 7 liều phụ, xem kết quả rồi quyết định tiếp.
Sau khi kiểm tra lại các phần tử, tôi cho pháo thủ của bạn thả đạn vào nòng. Đạn nổ, quan sát thấy lửa và khói trùm lên gần đỉnh núi. Tôi ra khẩu lệnh: “Đạn nổ tốt, gài 8 liều, bắn liền 2 quả… Bắn”… Khi bắn xong, có tiếng máy bay địch bay tới, tôi cho thu pháo, rồi sơ tán nhanh vào rừng.
Chiều hôm đó tôi được phân công đưa thương binh về huyện. Quãng đường rừng gần 2.000m mà phải đi gần 3 tiếng đồng hồ, do đường trơn, dốc cao. Có đoạn du kích phải lấy dao phát cây, hoặc khiêng chui qua những cây đổ, bụi rậm. Thương binh về đến huyện thì trời đã khuya.
Tôi được đánh giá hoàn thành tốt nhiệm vụ chiến đấu. Những quả đạn cối 82ly góp phần đánh tan bọn phỉ. Đại hội Đảng của huyện Mường Khoa thành công. Đồng chí Thọ tìm tôi và nói: - Huyện đội bạn phê bình anh mang súng to đi chiến đấu mà không báo cáo. Nhưng Huyện đội lại muốn xin anh sang giúp phần quân sự...
Sau đó tôi ở lại cùng các bạn Lào đến năm 1971 mới về nước.
Vũ Văn Nho kể
Xương Giang ghi